Xây dựng nông nghiệp đô thị
Nông nghiệp đô thị (NNĐT) thông minh còn gọi là nông nghiệp chính xác với mục tiêu làm cho việc canh tác nông nghiệp hiệu quả, được kiểm soát chặt chẽ và mang lại lợi nhuận cao trong trồng trọt, chăn nuôi gia súc và nuôi trồng thủy sản.
Mục tiêu của chương trình nông nghiệp thông minh nhằm phát triển và thương mại hóa những công nghệ chính xác, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp, thông qua các chương trình nghiên cứu, tăng cường kết nối với các tổ chức trong, ngoài nước; phát triển liên kết với ngành công nghiệp để tiếp cận, chuyển giao công nghệ, phát triển kỹ năng và dịch vụ cộng đồng. NNĐT thông minh còn là một xu hướng mới nhằm đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm cho đô thị. Ở nước ta, tuy đã xuất hiện nông nghiệp thông minh, nhưng quy mô nhỏ và dường như chưa có mô hình hoàn chỉnh.
Theo Tổ chức Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), NNĐT là hoạt động sản xuất các loại thực phẩm và sản phẩm nông nghiệp dựa trên quỹ đất và nguồn nước ở khu vực đô thị. Hoạt động này dùng phương pháp sản xuất chuyên canh, sử dụng nguyên liệu tự nhiên, chất thải ở đô thị và tập trung chủ yếu vào phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.
Gần đây, xu hướng phát triển NNĐT đã được nhìn nhận toàn diện và hệ thống hơn. Theo Mạng lưới Nông nghiệp đô thị thế giới định nghĩa, NNĐT là ngành sản xuất, chế biến và tiếp thị thực phẩm, nhiên liệu và các sản phẩm đầu ra để đáp ứng nhu cầu hằng ngày của người tiêu dùng trong các thị trấn, thành phố hoặc đô thị.
Theo khái niệm của Mạng lưới chuyên đề canh tác thông minh châu Âu, canh tác thông minh là ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại (ICT) vào nông nghiệp. Cuộc cách mạng này phối hợp ICT với những thiết bị chính xác để kết nối vạn vật (IoT), cảm biến, định vị toàn cầu, quản lý dữ liệu lớn (Big data), thiết bị bay không người lái (drone), người máy (robot)..., tạo điều kiện cho người dân tăng thêm giá trị và đưa ra những quyết định khai thác, quản lý hiệu quả hơn.
NNĐT có đặc điểm là tổ chức sản xuất trong không gian nhỏ và ít đất canh tác. Đóng góp của NNĐT đối với đời sống dân cư phụ thuộc vào những thuận lợi và khó khăn kể và nhận thức về kiểm soát, giám sát rủi ro. So với nông nghiệp truyền thống, NNĐT có lợi thế cạnh tranh nhất định, đặc biệt có thể cung cấp cho các thị trường đô thị những sản phẩm có chi phí rẻ, bao gồm cả chi phí môi trường. Tuy nhiên, nền nông nghiệp này lại không cạnh tranh với nông nghiệp ở các vùng nông thôn, mà tập trung chủ yếu vào những hoạt động có lợi thế, nhất là cung cấp nông sản cho cư dân thành phố.
Là nền sản xuất nông nghiệp đa chức năng, NNĐT giữ vai trò tạo cảnh quan đô thị và cải thiện sức khỏe cộng đồng, góp phần cung ứng lương thực, thực phẩm tươi sống tại chỗ cho các đô thị. NNĐT có khả năng giải quyết được các vấn đề khó khăn của cư dân thành thị và đặc biệt, đó là giải pháp khả thi cho đô thị thông minh, đóng góp vào những nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng xanh, tạo nguồn lương thực, thực phẩm an toàn, sản xuất hoa cây cảnh và tạo đa dạng.
Những thành phố thực sự quan tâm đến phát triển NNĐT có thể tự đáp ứng đến 100% nhu cầu nông sản tươi sống. Sử dụng tầng mái ở New York (Mỹ) có thể tăng gấp đôi không gian cần thiết để cung cấp rau xanh cho toàn thành phố (TP), trồng cây xanh ở TP có thể giảm được đáng kể lượng rác thải thực phẩm.
Là một hệ thống phức tạp, NNĐT bao gồm cốt lõi truyền thống liên quan đến sản xuất, chế biến, tiếp thị, phân phối và tiêu dùng nông sản, sáng kiến quy hoạch và thiết kế hiện đại, đáp ứng yêu cầu của mô hình NNĐT phù hợp với thiết kế bền vững thường gắn với các quyết định chính sách để xây dựng các TP hiện đại, tiếp cận thực phẩm giầu dinh dưỡng, là sự khác biệt trong những nỗ lực nhằm định vị sản xuất lương thực và chăn nuôi ở các TP.
Khu vực đô thị đang phải đối mặt với an ninh lương thực còn nhiều hạn chế, thường dựa vào thức ăn nhanh qua chế biến hoặc các cửa hàng tiện lợi có hàm lượng calo cao và ít chất dinh dưỡng, dễ dẫn đến bệnh tật liên quan đến chế độ ăn uống. Phong trào làm vườn ở các cộng đồng đã mở ra cho công chúng cơ hội và cung cấp không gian cho người dân trồng cây làm thực phẩm hoặc giải trí trong các đô thị.
Trồng cây lâu năm đã ảnh hưởng to lớn trong thời kỳ phục hưng của nông nghiệp. Những năm 1960, nhiều khu vườn cộng đồng đã được xây dựng, những trang trại nông nghiệp đầu tiên được thành lập vào năm 1972 ở thành phố London (Anh) đã kết hợp chăn nuôi động vật với không gian làm vườn, tạo sự bổ sung lẫn nhau. Ở Úc, nhiều trang trại thành phố đã tồn tại nhiều năm trong lòng các đô thị. Tại Melbourne, trang trại Collingwood thành lập năm 1979 trên Khu di sản Abbotsford Precinct (APHF) ra đời vào năm 1838, liên tục là những trang trại thành phố lâu đời nhất của bang Victoria.
NNĐT phù hợp với Hà Nội là ngành kinh tế tổng hợp, bao gồm cả hoạt động sản xuất, chế biến và cung ứng dịch vụ về rau, hoa quả, thảm xanh thực vật, cây cảnh, cây trang trí, cây dược liệu, cây trồng nông nghiệp và sinh vật hữu ích khác; những trang trại này dùng phương pháp canh tác hữu cơ, công nghệ chính xác và giải pháp kỹ thuật truyền thống kết hợp với hiện đại.
NNĐT cung cấp lương thực, thực phẩm tươi sống, tạo không gian xanh, giảm tiếng ồn và hiệu ứng nhà kính; đồng thời kiến tạo cảnh quan kiến trúc môi trường, không gian thư giãn, chăm sóc sức khỏe, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân đô thị.
Trong quy hoạch sử dụng đất có khái niệm không gian NNĐT. Đây là nơi chứa đựng mọi hoạt động nông nghiệp, là một không gian đa chức năng. Không gian đô thị bao gồm các yếu tố của NNĐT, có thể hiểu đó là không gian bao gồm cả vật thể kiến trúc, cây xanh, mặt nước và hoạt động chăn nuôi trồng trọt thích hợp trong môi trường đô thị và có tác động trực tiếp đến cảnh quan. Không gian NNĐT bao gồm cảnh quan đô thị truyền thống và đô thị sản xuất phái sinh. Hầu hết lý thuyết phát triển đô thị đều nhìn nhận NNĐT với vai trò ngày càng quan trọng trong quy hoạch xây dựng phát triển bền vững, theo hướng sinh thái, giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện môi trường, gia tăng cảnh quan và tăng hiệu quả sử dụng đất đai đô thị.
So với nông nghiệp truyền thống, NNĐT có lợi thế cạnh tranh, nhất là có thể cung cấp cho thị trường những sản phẩm bao gồm cả phí môi trường với chi phí rẻ. Tuy nhiên, cần chú ý là NNĐT không cạnh tranh với nông nghiệp ở các vùng nông thôn và thường tập trung vào những hoạt động có lợi, nhất là cung cấp sản phẩm tươi sống, mau bị hư hỏng và không cần phải qua công nghệ chế biến, bảo quản lâu dài. Có thể thấy, NNĐT là một nền sản xuất đa chức năng, đóng vai trò chính về cung ứng lương thực thực phẩm, đảm bảo môi trường bền vững, tạo nhiều việc làm để nâng cao thu nhập cho người dân nghèo đô thị.
NNĐT thông minh là một xu hướng mới nhằm đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm cho đô thị. Ở nước ta, tuy đã xuất hiện nông nghiệp thông minh, nhưng quy mô nhỏ và dường như chưa có mô hình hoàn chỉnh. Việc áp dụng NNĐT thông minh còn nhiều khó khăn, thách thức, như: thiếu các nghiên cứu về các mô hình quản trị số để thiết kế những nền tảng phần mềm phù hợp với nhu cầu của các chuỗi giá trị; cơ sở dữ liệu số phục vụ nông nghiệp còn tản mạn, chưa được thiết kế và số hóa đồng bộ.
Khả năng cung ứng công nghệ cho nông nghiệp thông minh còn nhiều hạn chế. Các công ty vừa và nhỏ thường sử dụng các giải pháp riêng lẻ, thiếu sự kết nối trong điều kiện thị trường máy móc, thiết bị nông nghiệp chưa phát triển, tỷ lệ tự động hóa chưa cao và nhất là sản phẩm nông nghiệp thông minh chưa đồng bộ hoặc khó giao tiếp. Ngoài ra, suất đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp thông minh lớn hơn nhiều so với nông nghiệp truyền thống, đa số hộ gia đình không đủ điều kiện đầu tư.
Công tác nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao khoa học kỹ thuật chưa theo kịp thực tiễn yêu cầu sản xuất; các tiêu chí về nông nghiệp thông minh cùng với các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy trình sản xuất cho từng đối tượng cây trồng, vật nuôi chưa hoàn thiện. Mặt khác, nguồn ngân sách nhà nước và vốn tín dụng đầu tư vào phát triển nông nghiệp thông minh còn hạn chế; chính sách hỗ trợ chưa được xây dựng và ban hành kịp thời; chưa có ưu đãi về tín dụng và đất đai cho phát triển loại hình nông nghiệp này.
Áp dụng thực tế mô hình NNĐT thông minh cho Hà Nội
Trên thực tế, có nhiều hình thức phát triển NNĐT, bao gồm cả canh tác trên mặt đất, trên mái nhà, thủy canh, nhà kính và những công nghệ khác. NNĐT có tiềm năng sản xuất lương thực, đặc biệt là những loại sản phẩm dễ hỏng và có giá trị cao. Ngoài ra, ngày càng có nhiều mối quan tâm đến canh tác quy mô thương mại loại cây trồng phi lương thực như trồng hoa hoặc tận dụng không gian trồng cây trên các bức tường thành phố. Ở nhiều nơi, NNĐT đã đóng vai trò then chốt đối với an ninh lương thực và được phát triển mạnh trong những thành phố thông minh. Đây là vấn đề quan hệ mật thiết với kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ.
So với những hoạt động nông nghiệp khác, NNĐT sử dụng nhiều vốn, cơ sở vật chất, công nghệ và lao động, được cho là nền nông nghiệp công nghiệp hóa, có thể tận dụng thị trường để phát triển mạng lưới thông tin và giao thông, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và thương mại liên vùng. NNĐT phát triển bền vững cần theo cách tiếp cận liên ngành. Đây là cách làm quan trọng để đạt được 17 mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2030 của Liên Hợp Quốc.
Đô thị lớn có nhiều rủi ro về an ninh lương thực, thực phẩm do thiếu kết nối cung cầu. Hệ thống lương thực, thực phẩm hoạt động hiệu quả là cấu phần quan trọng của nền kinh tế, trở thành khát vọng rõ ràng của các thành phố năng động và là nội dung chính trong quy hoạch và chính sách đô thị, cần được các cấp lãnh đạo đặc biệt quan tâm.
Ở nhiều quốc gia, lương thực thực phẩm là một trong những chính sách và quản trị đô thị quan trọng. Trên toàn châu Á, chính sách lương thực từ lâu được coi là nhiệm vụ của các bộ về nông nghiệp. Trên thực tế, ngành nông nghiệp đã tập trung vào tăng cường sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn và thực hiện mục tiêu an ninh lương thực quốc gia. Nhìn chung, khu vực đô thị chưa được đề cập nhiều trong các quy hoạch nông nghiệp hay tài nguyên thiên nhiên.
Phát triển tổ chức an toàn thực phẩm toàn cầu cho thấy, hệ thống lương thực thực phẩm hiện được nhiều cơ quan khác nhau giải quyết, nhưng có ít sự phối hợp. Bài học kinh nghiệm rút ra trong quản lý là, các nhà quy hoạch và hoạch định chính sách đô thị do phải giải quyết quá nhiều vấn đề trong các thành phố phát triển nhanh nên nhiều thành phố đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức liên quan đến sự phát triển không theo quy hoạch, bao gồm cả tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm không khí, tích tụ chất thải rắn, cơ sở hạ tầng vật chất kém phát triển, cũng như yếu kém về y tế, giáo dục và các dịch vụ.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn Hà Nội, TP có 11 quy hoạch liên quan đến nông nghiệp, nhưng phần lớn đã bị biến đổi và phải điều chỉnh do tốc độ phát triển đô thị hóa quá nhanh, đã phá vỡ không gian nông nghiệp để nhường chỗ cho các khu nhà ở và hạ tầng đô thị. Đây là thách thức mà cư dân đã lên tiếng yêu cầu cần có giải pháp và sự phối hợp liên ngành. Để vượt qua được các khó khăn, thách thức nhằm đạt được các lợi ích to lớn do chuyển đổi số và nông nghiệp thông minh, các nhà phân tích cho rằng cần triển khai làm tốt một số giải pháp dưới đây:
Đầu tiên là khuyến khích phát triển nông nghiệp thông minh trên cơ sở nghiên cứu thị trường và nhu cầu của cư dân đô thị. Chính phủ cần ban hành những chính sách phù hợp với thực tiễn sản xuất, có tính khả thi nhằm huy động tốt nguồn lực để thực hiện cách mạng nông nghiệp thông minh; đầu tư công nghệ phù hợp với đô thị nhằm tạo sinh khí mới với những mô hình nông nghiệp thông minh, sản phẩm nông sản độc đáo, an toàn và có khả năng cạnh tranh cao.
Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Thông tin - Truyền thông để xây dựng kiến trúc tổng thể của Chính phủ số và kinh tế số trong ngành nông nghiệp, xác định rõ nhu cầu dịch vụ chức năng của các hộ nông dân nhỏ, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp để thiết kế nền tảng số tập trung và khung cơ sở dữ liệu số cho nông nghiệp đồng bộ giữa các nhóm ngành theo cơ cấu tổ chức thống nhất từ trung ương đến các địa phương.
Ngoài ra, cũng cần có đầu mối tập trung để thiết kế cấu trúc hệ thống công nghệ thông tin, tránh hiện tượng tự phát khi chưa có các tiêu chuẩn kết nối chung; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao để chủ động trong quá trình tiếp cận nông nghiệp thông minh; triển khai xây dựng, thu thập cơ sở dữ liệu trực tuyến về nông nghiệp theo hướng tích hợp và đồng bộ.
Khuyến khích doanh nghiệp công nghệ số đầu tư phục vụ nông nghiệp. Theo đó, cần chú ý đến công nghệ tự động hóa trong sản xuất nông nghiệp phù hợp với hộ nông dân nhỏ, gắn với nền tảng truy xuất nguồn gốc là những lĩnh vực cần ưu tiên để có thể ứng dụng được ngay; thúc đẩy nghiên cứu và đổi mới sáng tạo về nông nghiệp thông minh, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp thu các công nghệ và, phương thức quản trị số phù hợp nhằm tiết kiệm thời gian, tăng năng suất lao động, mang lại hiệu quả cao hơn.